Chùa Dâu Phúc Khê

Câu ca cổ còn ghi dấu lại hai ngôi chùa ở thôn Thượng Phúc, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội:


“Thượng Phúc làng có hai chùa,

Trên là chùa Tháp, dưới là chùa Dâu.
 

Chùa Dâu ở Kẻ Hạ, Phúc Khê là một ngôi chùa cổ có niên đại hơn 800 năm, được xây dựng từ thời nhà Trần. Chùa là nơi tụ hội của dân thôn Ngũ Phúc gồm 5 xóm: Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh nằm trên đất Khê Lương, Khê Tang, nên Chùa còn có tên Phúc Khê Tự. Chùa được xây dựng vào thời Trần, am chùa được xây dựng sớm hơn. Nơi đây lưu truyền một truyền thuyết: Một năm vào triều Lý Cao Tông, mưa lũ nước tràn đầy sông Nhuệ cuốn trôi về đây pho tượng gỗ Đức ngài Pháp Vũ dạt vào bờ Khe hạ (khu vực chùa Dâu, Phúc Khê). Nước cứ trôi, tượng gỗ thì dừng lại, chống lại dòng nước hung dữ. Trẻ chăn trâu trông thấy pho tượng phát ra ánh hào quang lấy làm lạ, hò nhau vớt tượng lên bờ, lấy gạch đá kê cho pho tượng đứng lên ngay ngắn. Tượng đức ngài linh thiêng. Ngài quý trẻ mục đồng, phù trợ cho chúng. Trẻ chăn trâu dưới trời nắng gắt vẫn không bị nhức đầu, khát nước, uống nước lã trong chùa vẫn không sao. Những năm hạn hán, dân lập đàn tế lễ cầu mưa. Ngài giúp dân làm mưa, giúp dân trong sản xuất nông nghiệp, tạo lập cuốc sống tốt lành.

Ngày hội chùa Dâu 27/4 âm lịch hằng năm đều có mưa, dân quanh vùng gọi là “mưa để rửa chùa và ban sự tốt lành”. Nơi đây đã tạo nên quần thể gồm am thờ, chùa Dâu (có Tam bảo, Phật điện), Tam quan, Điện mẫu, vườn chùa, đặc biệt là gác chuông. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: “Chùa Dâu (Phúc Khê Tự) có gác chuông để trên Tam quan. Chuông đánh vang vọng cả một vùng Thượng Phúc, Khê Lương, Cự Khê và Kê Tang. Đồng thời chuông chùa điểm canh cho thuyền bè qua lại và sinh hoạt của người dân. Dân trong vùng còn dựng cầu Khê Lương nối từ tả Trang Hạ với phía hữu là Khê Lương, Khê Tang rồi sang Cự Khê, Khúc Thủy. Đầu cầu, bên gốc đa của chùa dựng hai bia đá. Bia ghi nhận sự kiện liên quan đến cầu, địa danh nơi đây và chùa. Trán bia chạm hoa văn rồng chầu mặt trời, chân bia đặt trên lưng rùa đá đang bơi trên sóng thủy triều. Hàng chữ ghi ngang mặt bia: “Khê Thượng kiều bi” (bia cầu Khê Thượng)”.

Gọi là chùa Dâu Phúc Khê để phân biệt với chùa Dâu ở Bắc Ninh. Tam bảo chùa Dâu Phúc Khê không lớn bằng chùa Dâu Bắc Ninh nhưng cũng sắp xếp đủ năm lớp tượng phật ở gian Thượng điện và một bàn thờ nối tiếp với gian Thiên Hương. Tam bảo chùa Dâu Phúc Khê là nơi bày các tượng phật, còn gọi là Phật điện. Ở phần Thượng điện, lớp tượng trên cùng có ba pho Tam Thế. Phật Thích Ca ngồi giữa, biểu hiện của hiện tại, Phật A-Di-Đà ngồi bên trái, biểu hiện cho quá khứ, Phật Di-Lặc ngồi bên phải biểu hiện của thế giới vô vi. Lớp thứ hai có ba pho, đáng chú ý là pho tượng A-Di-Đà tiếp dẫn chúng sinh, ngồi tư thế thiền định trên tòa sen. Lớp thứ ba cũng có ba pho, ở giữa là tượng Thích Ca đứng trên đài sen, hai bên là A-Nan và Ca-Diếp, lớp này gọi là “Phật Niệm Hoa” có ý nghĩa đặc trưng của phái Thiền trong đạo phật.

 Những pho tượng trong chùa làm bằng chất liệu gỗ, đồng, đất đều sơn son thếp vàng, mang đậm phong cách dân gian, thể hiện tài khéo léo của các nghệ nhân xưa. Tất cả toát lên một thế giới thiền định, nêu rõ tính chủ đạo của chùa đề cao công đức, uy linh của đạo phật. Các tượng đều rút ngắn chiều cao, nhấn mạnh đặc điểm, chủ đề của nhân vật tượng. Như tượng Thích Ca niệm hoa, tay “Vô úy phật” được kéo dài gần hết đài sen, làm rõ sức thuyết pháp, yểm triệt tà ma. Các đầu tượng phật phán quan đều to, đề cao phần trí và tâm, thân tượng nở nang, y phục đơn giản, toát phong thái khai mở tâm đức. Tượng A-Di-Đà tọa sen đường bệ, gợi tỏa nguồn sáng “Tân-Trí-Đức” bất tận.

Một đặc điểm nổi bật của chùa Dâu Phúc Khê là đề cao đạo đức, tâm đức, công đức. Trước Tam bảo chùa treo tấm hoành phi “Công đức vô lượng”, hoành phi ghi tại tượng đông Đức ông là “Chính trực, Bia đá, Niên nguyệt Nhật trường”, ca ngợi đạo đức Cao Minh Chính Thánh Vương… Hoặc những câu đối đề cao công đức, sự cảm hóa của đạo phật.

 

Phát huy truyền thống đề cao cái đức, cái tâm, sư thầy Thích Diệu Thu, trụ trì chùa Dâu Phúc Khê có một nguyện vọng thể hiện cái tâm của nhà phật: Muốn đứng lên quyên góp, kêu gọi các nhà hảo tâm, các đệ tử thập phương góp công, góp sức cùng nhà chùa xây dựng môt Tượng đài liệt sĩ ngay trong khuôn viên chùa để ngày đêm nhà chùa hương khói, thỉnh chuông, cầu siêu vong hồn các liệt sĩ đã bỏ mình vì dân, vì nước. Âu đó cũng là đạo lý giàu chất nhân văn “uống nước nhớ nguồn”, nét đẹp văn hóa của người Hà Nội. Và theo thầy Thích Diệu Thu, đó cũng là việc làm cụ thể tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội của chùa Dâu Phúc Khê.

Lê Sĩ Tư
Nguồn: KTĐT
 

Lịch sử: